***
Tôi tìm ra ngay chỗ ông ta lánh mặt ở cầu tàu. Ông ta ngồi ngả người trên một chiếc ghế bố đọc sách. Tôi đứng quan sát ông một hồi lâu trước khi bắt chuyện. Đầu ông xương xương ngả trên gối ở một tư thế hơi mệt mỏi và tôi lại sửng sốt trước nước da tái mét một cách kỳ lạ trên khuôn mặt tương đối trẻ. Tóc ông đã bạc trắng; không hiểu sao tôi có cảm giác người này già trước tuổi. Ông nhã nhặn ngồi dậy khi tôi tiến lại gần và tự giới thiệu. Họ của ông thuộc một gia đình Áo cổ rất nổi tiếng, tôi nhớ là một người bạn của Sube[3] cũng như một vị thầy thuốc của hoàng đế cũng có tên họ như vậy.
Khi nghe tôi trình bày nguyện vọng của chúng tôi, ông xem ra rất bối rối. Tôi nhận thấy ông không hề có ý định đánh cờ với một nhà vô địch và nhất là với nhà vô địch nổi tiếng nhất của thời đại. Sự kiện này hình như đã gây rất nhiều ấn tượng đối với ông vì ông nhiều lần hỏi xem việc tôi đề xuất có chắc chắn không và đối thủ của ông có đúng là một bậc thầy nổi tiếng như vậy không. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ của tôi. Tuy nhiên, tôi nhận thấy ông rất tế nhị nên đã chẳng hề hé răng nói lời nào là MacCônno đảm nhiệm những phí tổn về vật chất. Sau hồi lâu do dự, ông B. tuyên bố sẵn sàng chấp nhận lời thách thức, “nhưng”, ông nói thêm và cười vẻ trầm ngâm, “mong ông nói lại với các ông ấy đừng quá đặt nhiều hy vọng vào tôi. Thật ra, tôi không rõ bản thân tôi có thể đánh một ván cờ theo đúng luật không? Mong ông hiểu cho, tôi nói thực tình không hề có chút khiêm tốn giả dối nào, tôi xin thú nhận là suốt từ dạo còn là học sinh trường trung học đến nay, nghĩa là trên hơn hai chục năm, tôi chưa hề đụng đến bàn cờ một lần nào. Hơn nữa, dạo đó tôi chỉ là một người đánh cờ xoàng”.
Ông B. nói những lời ấy với giọng chất phác nên tôi tin rằng ông thành thực. Tuy nhiên, tôi không thể không bày tỏ nỗi ngạc nhiên của tôi là tại sao ông lại nhớ chính xác những chiến thuật của nhiều bậc thầy khác nhau mà ông đã kể tên, chắc hẳn, ông rất quan tâm đến môn đánh cờ, ít ra là về mặt lý thuyết. Nghe thấy vậy, ông B. lại trầm ngâm cười, vẻ kỳ lạ.
- Kể ra thì tôi cũng quan tâm đấy! Chỉ chúa mới biết rõ điều ông vừa nói đúng tới mức nào. Nhưng sự việc diễn ra trong những hoàn cảnh hết sức đặc biệt, có thể nói là có một không hai. Đây là một câu chuyện khá phức tạp và có thể dùng làm minh họa cho thời đại thú vị chúng ta đang sống. Nếu ông có đủ kiên nhẫn để nghe tôi kể lại độ nửa tiếng…
Ông B. ra hiệu mời tôi ngồi xuống chiếc ghế bố đặt bên ghế của mình. Tôi vui vẻ nhận lời. Chỉ có mỗi hai chúng tôi. Ông B. bỏ kính ra và bắt đầu kể:
- Ông đã có nhã ý cho tôi biết ông là người Viên và đã biết rõ tên họ tôi. Tuy nhiên tôi cho rằng ông chưa từng nghe nói tới văn phòng luật sư, thoạt đầu tôi đã cùng thân phụ tôi quản lý, sau đó có mỗi mình tôi thôi. Chẳng là chúng tôi đã không biện hộ cho những vụ kiện đáng chú ý mà người ta đã nói tới trên các báo và chúng tôi đã không tìm cách bổ sung khách hàng của mình. Thật ra, chúng tôi đã không hoàn toàn làm đúng chức năng văn phòng của chúng tôi. Chúng tôi chỉ hạn chế trong việc làm cố vấn về mặt tư pháp và quản lý tài sản của những tu viện lớn mà thân phụ tôi – trước đây là phái viên của phái tăng lữ - đã có những quan hệ mật thiết.
“Hơn nữa – tôi cũng chẳng giấu gì ông, vì chế độ quân chủ vẫn tồn tại đến tận ngày nay – một số thành viên trong hoàng tộc đã trao cho chúng tôi nhiệm vụ quản lý tài sản của mình. Những mối quan hệ với triều đình và tăng lữ này chúng tôi đã xây dựng được suốt hai thế hệ: một là do người bác làm thầy thuốc của hoàng đế, một nữa là do trưởng tu viện ở Xaitenxtetten, và ngày nay chúng tôi chỉ còn việc cố duy trì chúng. Đấy là một hoạt động trầm tĩnh, có phần thầm lặng mà chúng tôi đeo đuổi ấy cũng là do cha truyền con nối và về phần mình chúng tôi cũng chỉ cần gìn giữ hai đức tính mà thân phụ đã quá cố của tôi đã có ở mức độ cao nhất: cực kỳ kín đáo và lòng trung thực đã được thử thách. Tuy lạm phát và nhiều thay đổi ở tầng lớp quí tộc, thân phụ tôi quả đã giữ được cho khách hàng một phần khá lớn tài sản của họ.
“Khi Hitle lên nắm quyền ở Đức và bắt đầu vơ vét Giáo hội và các nhà tu, để tránh, ít ra những động sản của khách hàng chúng tôi không bị động đến, chúng tôi đã tìm các chuyển chúng ra nước ngoài. Dạo đó, thân phụ tôi và tôi biết rõ những hoạt động chính trị bí mật của Rôm và hoàng tộc mà công chúng sẽ không bao giờ hay biết cả. Nhưng chính do tính chất kín đáo của văn phòng chúng tôi – ngoài cửa cũng chẳng gắn một tấm biển nào – và do thận trọng chúng tôi đã không công khai tiếp xúc với giới những người quân chủ nên không bị nhòm ngó điều tra. Không một nhà chức trách nào ở Áo đặt vấn đề nghi là gần như toàn bộ thư từ bí mật của hoàng tộc đều do một văn phòng chẳng ai thèm để mắt nằm ở tầng năm một căn nhà đã chuyển đi.
“Thế mà, từ lâu, trước khi tung quân đội xâm chiếm thế giới, bọn Quốc xã đã tổ chức ở tất cả các nước láng giềng một đội quân khác cũng nguy hiểm và được luyện tập kỹ như đội quân trên, gồm những tên bất bình và bất mãn của mọi chế độ chính trị khác nhau, bọn này luồn lách vào từng văn phòng, từng xí nghiệp và có cơ sở điệp viên tận văn phòng riêng của Đônphux và Susnic. Than ôi! Tôi phát hiện quá muộn người của chúng cũng đã lọt được vào văn phòng nhỏ bé của chúng tôi. Thật ra, hắn chỉ là một nhân viên quèn thảm hại mà chúng tôi đã tuyển theo lời giới thiệu của cha xứ để văn phòng chúng tôi có dáng vẻ bình thường. Chúng tôi chỉ giao cho hắn chạy những việc vô hại, trả lời điện thoại và sắp xếp những giấy tờ vô nghĩa. Hắn không được bóc thư tín, tự tay tôi đánh máy những thư quan trọng, không để lại bản sao ở văn phòng, tôi đem về nhà những tài liệu quan trọng và gặp gỡ bí mật, cho ý kiến tại tu viện hoặc tại chỗ bác tôi.
“Nhờ đề phòng như vậy, ở văn phòng chẳng còn gì quan trọng để rình mò. Chắc do một rủi ro bất ngờ nào đấy, cái tên đầy tham vọng này đã phát hiện bị nghi ngờ và mọi chuyện đã diễn ra sau lưng hắn. Có lẽ, khi tôi vắng mặt, một người đưa tin thiếu thận trọng đã gọi “hoàng thượng” thay vì “nam tước Bern” như đã quy định, hoặc cái tên vô lại ấy đã bóc trộm thư, không chấp hành lệnh. Chắc Munic hay Berlin đã trao cho hắn nhiệm vụ theo dõi chúng tôi, trước khi tôi nảy ra ý nghi ngờ hắn. Chỉ mãi sau này và khi bị bắt tôi mới nhớ lại thái độ đột nhiên sốt sắng của hắn vào thời gian cuối lúc còn đang làm việc ở chỗ chúng tôi và những lời năn nỉ của hắn muốn giúp chúng tôi đi bỏ thư ở bưu điện. Về phần mình, tôi cũng thành khẩn nhận ra là tôi thiếu lo xa, nhưng biết bao những nhà ngoại giao và sĩ quan đã bị lừa vì sự nham hiểm của cái bọn này?
“Ít lâu sau, tôi có một chứng cớ xác thực cho thấy bọn Gextapô đã để ý đến tôi từ lâu: ngay tối hôm Susnic từ chức, rạng sáng hôm quân của Hitle vào Viên thì tôi bị bọn SS bắt. May mà ngay sau khi nghe bài diễn văn từ biệt của Susnic, tôi đã vội đốt mọi giấy tờ quan trọng nhất và một phút trước khi bị bọn cảnh sát gõ cửa, tôi đã giấu vào làn quần áo gửi cho bác tôi, qua bà quản gia già trung thành của tôi, toàn bộ giấy tờ cần thiết công nhận quyền của Susnic được sở hữu tu viện của mình và quyền của hai quận công Đônphux và Susnic có những sở hữu khác ở nước ngoài”.
Ông B. ngừng kể để châm một điếu xì gà. Ánh lửa rọi sáng miệng ông; cơ mép ông giật mạnh, trước đây tôi ngạc nhiên nhận thấy hiện tượng này đã làm miệng ông bị méo về bên phải. Đây chỉ là một động tác thoáng qua, khó nhận thấy, nhưng nó tạo cho khuôn mặt ông có dáng vẻ lo lắng kỳ lạ.
“Chắc ông nghĩ rằng bây giờ tôi sẽ nói ông nghe về một trại tập trung nhốt biết bao người Áo đã trung thành với Tổ quốc của họ và tôi định mô tả lại tất cả những điều nhục nhã và những cảnh tra tấn mà con người đã phải chịu đựng trong trại đó? Nhưng chuyện ấy không hề xảy ra với tôi. Tôi bị xếp vào một loại đặc biệt. Bọn chúng không nhốt tôi cùng với những người khốn khổ mà chúng đã dùng nhục hình và đày đọa về tinh thần để trả mối hận thù có từ lâu, bọn Quốc xã liệt tôi vào nhóm người không đông lắm mà chúng hi vọng moi được tiền của và tài liệu quan trọng. Về bản thân tôi, bọn Gextapô chẳng quan tâm đến thân phận nhỏ nhoi này đâu.
“Chắc hẳn bọn chúng đã tìm hiểu được rằng chúng tôi là những người quản lý đáng tin cậy của kẻ thù kiên quyết nhất chống **** của chúng, và điều chúng muốn khai thác ở tôi là những tài liệu. Những tài liệu dùng làm chứng cớ không chối cãi được chống lại các tu viện nhằm cướp đoạt tài sản của tu viện và còn dùng để chống hoàng tộc. Không phải vô cơ, bọn chúng cho rằng những tài sản qua tay chúng tôi chắc còn sót lại khá lớn và được cất giữ ở nơi khó moi. Do đó, bọn chúng đã bắt giữ tôi ngay hôm đầu để dùng những biện pháp mà chúng cho rằng sẽ có hiệu quả tuyệt vời buộc tôi phải phun ra.
“Những người loại này không bị nhốt trong trại tập trung, bọn chúng đã dành cho họ một hoàn cảnh sinh hoạt đặc biệt. Có lẽ ông vẫn còn nhớ rằng cả ********* của chúng tôi lẫn nam tước Rốtsin đều không bị nhốt sau lớp rào dây thép gai, mà chúng đã ưu ái để các vị ấy sống ở khách sạn, mỗi người một phòng riêng. Đấy là khách sạn Mêtrôpôn, nơi bọn Gextapô đã đặt tổng hành dinh của chúng. Một nhân vật vô danh tiểu tốt như tôi cũng có được niềm vinh dự đó.
“Một phòng riêng tại một khách sạn – tôi đâu dám mơ ước một sự đối xử nhân đạo hơn? Ấy là, mong ông tin rằng đấy chỉ là để áp dụng một biện pháp tinh tế hơn với chúng tôi, chẳng phải vì nhân đạo mà chúng tôi được ở trong các phòng khách sạn sưởi ấm đàng hoàng chứ không phải trong những lán lạnh buốt và chật cứng. Vì bọn chúng muốn gây một sức ép tế nhị hơn là đòn vọt và các nhục hình khác để moi tài liệu ở chúng tôi. Bọn chúng bắt chúng tôi phải sống cách ly ở mức tinh tế nhất mà chúng đã nghĩ ra. Chúng chẳng làm gì chúng tôi cả - chúng chỉ để chúng tôi mặt đối mặt với cõi hư vô, vì hiển nhiên không còn gì ở trên đời này có thể đè nặng lên tâm hồn con người bằng cách đó. Tạo ra ở quanh mỗi chúng tôi một khoảng trống hoàn toàn, giam mỗi chúng tôi trong một căn buồng bịt kín, cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài, là chúng sử dụng một sức ép buộc chúng tôi phải khai, đảm bảo hơn roi vọt và cái lạnh.
“Thoạt nhìn, căn phòng tôi được phân xem ra cũng khá đầy đủ tiện nghi. Nó có một cửa ra vào, một chiếc giường và một chiếc ghế, một chậu và một cửa sổ bịt lưới sắt. Nhưng cửa ra vào ngày đêm bị khóa chặt, tôi không được cung cấp sách, báo, giấy và bút chì. Quanh tôi là cõi hư vô mà tôi hoàn toàn ngụp lặn trong đó. Chúng lấy đồng hồ của tôi để không còn lượng biết thời gian, bút chì để không viết gì được, dao để không thể rạch được mạch máu; tôi còn bị khước từ cả cảm giác lâng lâng ngây ngất do điếu thuốc gây nên. Tôi chẳng bao giờ thấy một bóng người, trừ tên giám ngục đã được lệnh không được nói và trả lời tôi một câu nào. Tôi chẳng bao giờ nghe thấy tiếng người.
“Cái chế độ ngày đêm bị tước bỏ những cảm giác đối với mọi món ăn tinh thần này đã đẩy tôi đến chỗ trơ trọi, trơ trọi một cách tuyệt vọng trước mỗi mình tôi và bốn hoặc năm đồ vật câm lặng: chiếc bàn, chiếc giường, chiếc cửa sổ, chiếc chậu. Tôi sống như một người thợ lặn ở trong một chiếc chuồng thủy tinh thả giữa biển đen ngòm của cảnh im lặng, nhưng đây là một thợ lặn đã cảm thấy sợi dây nối với thế giới bị đứt và sẽ không bao giờ được kéo ra khỏi những độ sâu câm lặng. Tôi chẳng có gì để làm, chẳng có gì để nghe, chẳng có gì để nhìn, quanh tôi là cõi hư vô gây cho tôi cảm giác choáng váng, một khoảng trống không kích thước trong không gian và trong thời gian. Tôi đi đi lại lại trong phòng mình, còn những suy nghĩ của tôi cũng không ngừng đi đi lại lại trong đầu tôi, theo cùng một nhịp hoạt động.
“Nhưng, do thiếu đề tài để biểu lộ như vậy, nhưng suy nghĩ cũng cần có một điểm để nương tựa, nếu không chúng sẽ tự xoay quanh chúng theo một vòng tròn điên cuồng. Chúng cũng không thể chịu đựng được sự hư vô. Từ sáng tới tối, người ta chờ đợi một chuyện gì đó, nhưng đã chẳng có chuyện gì xảy ra. Người ta chờ, người ta đợi, người ta mong, những suy nghĩ cứ xoay quanh trong đầu ta tới lúc hai thái dương đau nhức. Vẫn không có chuyện gì xảy ra. Tôi vẫn có một mình tôi. Trơ trọi. Cô đơn.
“Tình trạng này kéo dài mười lăm ngày, mười lăm ngày tôi đã sống tách khỏi thời gian, tách khỏi thế giới. Chiến tranh đã nổ ra mà tôi không hay biết gì. Đối với tôi, thế giới chỉ bao gồm có một chiếc bàn, một cái cửa ra vào, một chiếc giường, một chiếc ghế, một chiếc chậu, một cửa sổ, và bốn bức tường cùng bồi một loại giấy, mà tôi cứ nhìn chăm chăm và do nhìn mãi, mỗi đường họa sinh động như đã được khắc sâu vào óc tôi.
“Cuối cùng tôi bị lôi ra hỏi cung. Tôi bị gọi đi bất thình lình không kể ngày đêm. Tôi bị điều qua các phòng giam, chẳng rõ mình đang ở đâu. Đứng đợi một lúc ở một chỗ nào đó, rồi bất thần thấy mình đứng trước chiếc bàn ngồi quanh có mấy người mặc quân phục. Trên mặt bàn để một bó giấy, một tập hồ sơ chả biết nội dung ra sao, và tôi liền bị vặn hỏi ngay, có những câu hỏi thẳng, có những câu nham hiểm, có câu cốt để moi câu khác, có câu muốn dồn tôi vào bẫy. Khi tôi trả lời, những bàn tay lạ và thù địch lật giở đống giấy ở trên bàn, ngòi bút của một kẻ ác ý ghi dựng lên một biên bản không biết đã thêm bớt ra sao. Tôi bị tra hỏi, tra hỏi hoài. Mỗi câu trả lời của tôi mang một trách nhiệm rất nặng. Nếu tôi nói ra một điều gì bọn chúng chưa biết, tôi có thể đẩy một người nào đó đến chỗ chết; nếu tôi cứ im lặng hoài thì tự gây nguy hại cho bản thân.
“Việc hỏi cung không phải là chuyện tệ hại nhất. Điều tệ hại nhất là phải quay về chốn hư vô, quay trở về căn phòng đó, đứng trước vẫn cái bàn, vẫn chiếc giường, vẫn chiếc chậu, bức tường ấy. Vì, vừa còn mỗi mình đối diện với bản thân mình, tôi liền nhớ lại cuộc hỏi cung, suy nghĩ xem lẽ ra nên trả lời thế nào thì khôn hơn, lần sau sẽ nói gì để tránh mọi ngờ vực có thể có do một nhận xét khinh xuất của tôi. Tôi suy ngẫm, đào sâu, rà soát lại từng lời khai nhân chứng của tôi, tôi cố nhớ lại từng câu hỏi, từng câu trả lời, cố nghĩ xem biên bản ghi những gì, trong khi đó biết chắc rằng mình chẳng thể đoán nổi nội dung biên bản.
“Nhưng một khi đã bật nghĩ, những suy nghĩ đó cứ luẩn quẩn, quẩn quanh trong đầu tôi và suy nghĩ này làm nảy sinh suy nghĩ khác và theo đuổi tôi mãi vào giấc ngủ. Do đó, cuộc hỏi cung kết thúc, nhưng đầu óc tôi vẫn bị giày vò một cách nghiệt ngã, còn ác độc hơn cả sự hành hạ của các quan tòa, vì phiên tòa xét xử trong có một giờ, nhưng trong phòng tôi, nỗi cô đơn hành hạ tôi triền miên. Tại căn phòng đó, những suy nghĩ, những tưởng tượng điên rồ, những thâu tóm trì trệ của tôi chẳng tìm được cách giãn căng. Chính đây là điều bọn đao phủ của tôi mong muốn, bọn chúng làm cho những suy nghĩ của tôi cứ bị búi lại đến mức đầu óc đặc quánh lại chẳng còn cách nào khác phải để chúng phì ra, hay nói một cách khác phải thú nhận, thú nhận tất, như vậy là phải giao nộp bè bạn tôi, phải khai ra những điều bọn chúng mong muốn. Tôi cảm thấy thần kinh tôi bắt đầu dần dần bị chùng giãn trước sức ép ghê gớm ấy, và tôi bị căng thẳng tột độ phải tìm kiếm một sự khuây khỏa.
“Để coi như bản thân đang bận rộn một công việc gì đó, tôi ngân nga đọc hoặc nhớ lại được đâu hay đó những gì trước đây đã học thuộc lòng, những bài dân ca và những vần thơ của con trẻ, những đoạn thơ của Hôme đã học thuộc hồi còn ở trường trung học, những đoạn trong Bộ dân luật. Sau đó, tôi làm các phép tính cộng, chia những con số. Nhưng trong cảnh nhàn rỗi đó, trí nhớ của tôi chẳng nhớ được gì. Tôi chẳng tập trung vào được điều gì. Lúc nào tôi cũng chỉ suy nghĩ một vấn đề: chúng đã biết được những gì? Hôm trước mình đã nói gì? Lần sau phải nói những gì?
“Tôi đã phải sống bốn tháng trời trong những điều kiện không bút nào tả xiết đó. Bốn tháng, viết và nói ra thì thật là nhanh chóng. Chỉ cần một phần tư giây cũng đủ để thốt ra ba từ này: bốn tháng trời. Chỉ cần vài nét chữ là đủ để ghi lại mấy từ ấy. Những phác họa, diễn tả ra sao đây, dù cho bản thân tôi thôi, cuộc sống thoát ra khỏi không gian và thời gian ấy? Không ai có thể nói rõ cái cảnh trống rỗng khắc nghiệt đó hủy hoại và tàn phá ta như thế nào và đôi mắt cứ phải triền miên nhìn mãi chiếc chậu và giấy bồi tường này, sự im lặng mà ta bị nhấn chìm vào, thái độ của tên giám ngục – lúc nào cũng độc mỗi tên đó – đặt thức ăn trước mặt tù nhân mà không thèm ngó nhìn người tù, tác động đến ta như thế nào. Những suy nghĩ, lúc nào cũng vẫn suy nghĩ ấy, xoay xoay trong khoảng tường quanh cảnh cô đơn làm cho tù nhân phát điên mới chịu buông tha.
“Qua những dấu hiệu nhỏ đáng lo ngại, tôi nhận thấy đầu óc bị rối loạn. Thoạt đầu, khi đứng trước bọn phán hỏi tôi, đầu óc tôi minh mẫn và tôi khai một cách bình tĩnh và có cân nhắc suy nghĩ; tôi đắn đo lựa trong óc xem cần nói gì và tránh không nói những gì. Về sau tôi không thể nói nổi một câu rất giản đơn mà không bị lắp và khi nói mặt tôi cứ nhìn chăm chăm như bị thôi miên ngòi bút của viên lục sự đang lướt trên trang giấy tựa hồ như tôi chạy đuổi theo những lời của tôi. Tôi thấy sức lực tôi giảm sút và sắp đến lúc, do hy vọng được giải thoát, tôi sẽ khai tất những gì tôi biết, và còn khai bừa thêm nữa để thoát khỏi nanh vuốt chán ngắt của hư vô, tôi sẽ phải phản bội dù mười hai người và tiết lộ bí mật của họ, miễn sao được một lát nghỉ ngơi.
“Và một buổi tối, tôi đã lâm vào đúng tâm trạng đó. Tên giám ngục mang đồ ăn đến cho tôi, lúc gã chuẩn bị bước ra ngoài, tôi đã quẫn uất và gào lên: “Dẫn tôi đến gặp các viên thẩm phán! Tôi sẽ khai tất!” Cũng may tên giám ngục không nghe. Có lẽ gã chẳng muốn nghe tôi nói gì. Đúng lúc tôi có hành động cực đoan ấy thì xảy ra một sự kiện bất ngờ đã cứu nguy cho tôi, ít ra cũng trong một thời gian. Chuyện xảy ra vào một ngày buồn tẻ và âm u hồi cuối tháng bảy. Tôi nhớ rất rõ chi tiết này vì mưa quất mạnh trên các lớp kính dọc theo hành lang dài tôi bị dẫn đi hỏi cung. Tôi phải ngồi chờ ở phòng ngoài. Bao giờ cũng phải ngồi chờ trước khi bị hỏi cung, vì đây là một khâu trong phương pháp. Bọn chúng làm thần kinh của người bị buộc tội lung lay bằng cách thình lình đang giữa nửa đêm đến lôi đi, sau đó khi tù nhân trấn tĩnh lại, cố tập trung toàn bộ nghị lực để đương đầu với cuộc hỏi cung sắp tới thì bắt người đó đợi, đợi một cách vô lý trong một, hai ba giờ trước khi hỏi cung, nhằm làm xẹp cả tinh thần lẫn thể xác. Vào cái ngày 27 tháng bảy đó, tôi đã phải đứng ngoài phòng đợi suốt hai tiếng đồng hồ; tại sao tôi lại nhớ chính xác như vậy ngày hôm đó, chẳng là trên tường có treo một bìa lịch, và do cứ phải đứng mãi – tất nhiên tù nhân cấm không được ngồi – tôi bị chồn chân, nên thèm được đọc một cái gì đó, tôi liền đưa mắt đọc ngấu nghiến hàng chữ ngắn ngủi: 27 tháng bảy nổi bật trên vách tường.
“Sau đấy, tôi lại đợi, tôi đưa mắt nhìn cánh cửa, thầm nghĩ không biết bao giờ nó bật mở và tự hỏi không biết lần này bọn thẩm phán sẽ vặn vẹo những gì, tuy biết chắc rằng bọn chúng sẽ chẳng hỏi những câu mà tôi đã chuẩn bị. Tuy thấy lo ngại cứ phải đợi chờ mãi, tuy mệt mỏi, nhưng dẫu sao tôi cũng được an ủi là tôi hiện đang đứng tại một phòng khác với phòng tôi, một phòng rộng lớn có hai cửa sổ không có giường và không có chậu, gỗ lát tường không có mấy chỗ toác mà tôi đã nhận thấy phải tới triệu lần ở trong phòng tôi. Màu vecni cũng khác, ghế cũng khác; phía bên trái cửa ra vào có một chiếc tủ xếp đầy hồ sơ và một tủi treo áo có treo ba, bốn áo bành tô nhà binh ướt sũng, đó là áo của bọn đao phủ hành hạ tôi.
“Như vậy, tôi được nhìn thấy những đồ vật mới – cuối cùng, có cái mới – và cặp mắt tôi nhìn chăm chăm không dứt ra được. Tôi nhìn kỹ từng đường nếp trên những chiếc áo bành tô ấy và tôi quan sát, chẳng hạn, một giọt nước ở mép cổ áo ướt. Tôi xúc động chờ, kể cũng kỳ cục, xem giọt nước sẽ lăn dọc theo nếp áo hay còn cố cưỡng lại lâu hơn nữa trước sức nặng của nó, đúng, tôi hổn hển nhìn chăm chăm giọt nước mưa đó trong mấy phút, tựa hồ cuộc đời tôi do chính nó định đoạt. Và khi cuối cùng nó rơi, tôi bắt đầu đếm các cúc trên từng chiếc áo bành tô, áo thứ nhất có tám cúc, áo thứ hai – tám và áo thứ ba – mười; đoạn tôi so sánh lại tay các áo. Mắt tôi say đắm nhìn những chi tiết vô nghĩa này thật thích thú và thỏa thuê mà tôi không thể dùng lời nào diễn tả được.
“Và mắt tôi bỗng để ý đến một vật, một vật phồng phồng trong một túi áo. Tôi tiến lại gần và nhận ra qua lần vải giãn căng khổ hình chữ nhật của một cuốn sách. Một cuốn sách! Đầu gối tôi run lên: một cuốn sách! Bốn tháng nay tôi không được cầm trên tay một cuốn sách nào và chỉ riêng sự hiện diện của nó cũng đủ làm tôi choáng người. Một cuốn sách trong đó tôi sẽ được thấy các từ xếp thẳng hàng nối nhau liên tiếp, những dòng chữ, những trang sách, những tờ sách mà tôi có thể lật giở. Một cuốn sách mà tôi có thể dõi theo những suy nghĩ khác, những suy nghĩ mới làm chuyển hướng suy nghĩ của tôi và tôi có thể lưu lại ở trong đầu, đây đúng là một phát hiện vừa thật say sưa và vừa dịu dàng biết bao! Cặp mắt tôi nhìn chăm chăm như bị thôi miên vào chiếc túi căng hình cuốn sách, mắt tôi như nảy lửa muốn hun cháy một lỗ trong chiếc áo bành tô ấy. Tôi không kìm nén được nên sán lại bên chiếc áo. Chỉ riêng cứ nghĩ là mình sẽ được nắm một cuốn sách, dù qua lớp vải, cũng làm các ngón tay tôi nóng ran lên như phải bỏng. Tôi gần như vô tình cứ sán sát lại bên chiếc áo bành tô.
“May mà tên giám ngục không chú ý tới thái độ kỳ cục của tôi. Chắc gã nghĩ rằng một người phải đứng suốt hai giờ liền, nếu có đến đứng tựa một lát vào vách tường thì cũng là điều tự nhiên. Cuối cùng tôi đã ở bên chiếc áo bành tô và tôi chắp hai tay ra sau lưng để có thể lén sờ vụng được, tôi nắn lần vải và đúng là cảm thấy một vật hình chữ nhật mềm mềm và khẽ phát ra những tiếng răng rắc nhẹ - một cuốn sách! Đúng là một cuốn sách! Bỗng một ý nghĩ lóe lên như tia chớp ở trong đầu tôi: cố xoáy cuốn sách này! Nếu xoáy được, nhà ngươi có thể giấu nó ở phòng nhà ngươi và đọc, đọc, đọc, đọc đi, đọc lại! Ý nghĩ này vừa nảy ra ở trong đầu, nó tác động ngay vào tôi như một liều thuốc độc mạnh, tôi ù hết cả tai, tim đập thình thịch, tay lạnh cóng và không chịu phục tùng tôi nữa.
“Tuy vậy, trạng thái sững sờ ban đầu vừa qua đi, tôi khéo lép nép sát người vào áo bành tô và vừa đưa mắt chăm chăm nhìn tên giám ngục vừa từ từ đẩy cuốn sách ra khỏi miệng túi. Hấp! Tôi thận trọng đón lấy nó và cầm ở nơi tay một cuốn sách khá mỏng. Mãi lúc này tôi mới thấy hốt hoảng trước việc mình vừa làm. Nhưng tôi không thể lùi bước được nữa rồi. Cất giấu nó ở đâu bây giờ? Vẫn ở sau lưng tôi luồn nó vào thắt lưng và đẩy nhẹ tới ngang hông để khi đi tôi có thể giữ nó bằng cách kẹp tay sát mép quần như kiểu nhà binh. Bây giờ tôi thử xem cách đó có ổn không. Tôi rời khỏi tủ treo áo, đi một, hai, ba bước. Ổn rồi. Tôi có thể giữ cuốn sách ở nguyên một chỗ nếu áp thật sát cánh tay vào người, tại ngang thắt lưng.
“Đến lúc tôi bị lôi vào hỏi cung. Tôi phải hết sức cố gắng chưa từng thấy, vì tôi phải tập trung toàn bộ chú ý vào cuốn sách và cố giữ cho nó khỏi tụt xuống hơn là vào lời khai nhân chứng. Cũng may, hôm đó buổi hỏi cung không kéo dài và tôi đưa được cuốn sách về phòng tôi. Tôi không muốn đi vào chi tiết nhưng một lần, lúc đi dọc hành lang nó đã tụt quá sâu thật nguy hiểm, tôi giả vờ như bị lên cơn ho dữ dội cúi gập người xuống và kín đáo đẩy nó giắt vào thắt lưng. Khi quay về tới chốn địa ngục của tôi, đây là giây phút không thể quên được, cuối cùng lại trơ trọi một thân một mình, thế nhưng lúc này tôi có cái vật quý này làm bầu bạn.
“Chắc ông nghĩ rằng tôi liền lôi cuốn sách ra khỏi chỗ cất giấu để nhìn ngắm và đọc. Nhưng không. Thoạt đầu tôi muốn tận hưởng niềm vui do chỉ riêng sự hiện diện của cuốn sách đã đem lại cho tôi và tôi dềnh dàng kéo dài giây lát được nhìn thấy nó để có cái thú tuyệt diệu là mơ mộng xem nội dung sách nói gì. Trước hết tôi ước mong sao sách in chữ thật dày, bài thật nhiều, giấy thật mỏng để tôi có nhiều cái mà đọc. Tôi cũng còn hy vọng rằng đây sẽ là một tác phẩm khó, phải vận dụng khá nhiều tri thức mới đọc nổi, sẽ là một tác phẩm có thể học thuộc lòng, tác phẩm thơ ca, và nếu là tác phẩm viết về một ước mơ táo bạo, tác phẩm của Gớt hay Hôme thì thích hơn. Cuối cùng, tôi không thể kìm nổi nỗi khao khát và lòng tò mò của tôi. Tôi ra giường nằm ở tư thế sao cho nếu tên giám ngục có vào đột xuất thì cũng không thể tóm được, rồi run rẩy lôi cuốn sách giắt ở thắt lưng ra.
Thoạt nhìn cuốn sách tôi đã bực mình và cay đắng thất vọng: cuốn sách mà tôi đã phải cực kỳ mạo hiểm để nẫng nhẹ, cuốn sách đã khơi gợi trong tôi một niềm hy vọng cháy bỏng biết bao chỉ là một cuốn sách dạy đánh cờ, một tập hợp gồm một trăm năm mươi ván cờ của các bậc thầy. Nếu không bị nhốt khóa trái cửa chắc trong cơn tức giận tôi đã quẳng cuốn sách này qua cửa sổ rồi, vì trời đất quỷ thần, tôi cần quái gì cái đồ sách chuyên luận này? Hồi học ở trường trung học, tôi cũng như đa số bè bạn đã từng tập tọng đi Binh trên bàn cờ vào lúc buồn chẳng biết làm gì. Nhưng còn với tác phẩm lý thuyết này thì tôi sử dụng ra sao đây? Đánh cờ mà không có đối thủ, lại chẳng có bàn lẫn quân thì đánh thế nào?
“Tôi chán ngán lật giở cuốn sách, hy vọng rằng có một cái gì đó như lời giới thiệu, lời chỉ dẫn để đọc. Nhưng nó chỉ gồm toàn những biểu đồ các ván cờ nổi tiếng, ở dưới ghi những ký hiệu thoạt đầu tôi chẳng hiểu gì cả: a2 – a3, Sf1 – g3, v.v… Tôi thấy đấy là những dòng mật mã mà tôi không có khóa.
“Dần dần tôi vỡ lẽ các chữ cái a, b, c chỉ các đường gọi là cột dọc, các số 1, 2, 3 chỉ các đường gọi là dòng ngang, và qua tọa độ cột dọc, dòng ngang có thể xác định vị trí của từng quân cờ trong ván cờ. Như vậy sự biểu diễn hoàn toàn mang tính chất đồ thị này cũng là một loại ngôn ngữ. Tôi tự nghĩ là mình cũng có thể làm một bàn cờ và sau đó chơi các ván cờ này. Nhờ Trời, tôi nhận thấy vải trải giường của tôi là vải kẻ ô vuông. Nếu gập cẩn thận tấm vải trải giường tôi sẽ có một bàn cờ với sáu mươi tư ô. Tôi liền cất giấu cuốn sách dưới đệm sau khi đã xé lấy ra trang đầu, đoạn tôi véo một ít ruột bánh mì trong suất ăn của tôi và nặn các quân cờ, quân Tướng, quân Hậu, quân Xe, và các quân khác. Các quân cờ tuy méo mó, nhưng tôi đã loay hoay tái tạo lại trên tấm khăn trải giường kẻ ô vuông vị trí các quân cờ trình bày trong cuốn sách giáo khoa.
“Tuy nhiên, thoạt đầu tôi không thể đánh trọn cả ván vì tôi dùng bụi lăn bột nặn quân “đen” nên cứ thường bị lẫn lộn. Cái ván đầu tiên ấy tôi phải đánh đi đánh lại đến năm, mười, hai chục lần. Nhưng trên đời liệu còn ai có nhiều thời gian hơn tôi và bị giam cầm trong cảnh hư vô thế này, ai là người háu và kiên nhẫn hơn tôi?
“Sáu ngày sau tôi đã có thể đi các quân cờ đâu ra đấy trong ván cờ đầu tiên. Tám ngày sau, tôi không cần các quân bằng bột mì cũng có thể hình dung vị trí các quân của đối phương trên bàn cờ. Tám ngày nữa, tôi chẳng cần cả đến tấm khăn trải giường kẻ ô vuông. Những kí hiệu a1, a2, c7, c8 lúc đầu xem ra rất trừu tượng đối với tôi lúc này cứ tự động được cụ thể hóa ra thành những hình ảnh thị giác. Sự chuyển vị đã hoàn hảo. Tôi đã nhớ rất rõ từng quân cờ, hình dung ra ngay từng nước đi một trong ván cờ nêu trong sách mà không cần đến bàn cờ. Tôi như một nhạc sĩ điêu luyện chỉ cần đưa mắt nhìn qua bản dàn bè là liền nghe nổi lên toàn bộ chủ đề và hòa âm ghi trong bản dàn bè. Chỉ cần thêm mười lăm ngày nữa, tôi có thể đánh theo trí nhớ tất cả các ván cờ trình bày trong cuốn sách: do đó tôi đã nhận thấy rõ lợi ích vô cùng to lớn của việc lấy trộm táo bạo ấy, vì bây giờ tôi đã có việc để làm, cứ cho là vô bổ đi, nhưng dẫu sao đấy cũng là một công việc, nó thủ tiêu sự ngự trị của cái hư vô trong tâm hồn tôi. Với một trăm năm mươi ván cờ này, tôi có một vũ khí tuyệt vời chọi lại tính đơn điệu đến ngột ngạt của không gian và thời gian.
“Để duy trì sức quyến rũ của hoạt động mới mẻ này, tôi đã chia một cách rất quy củ một ngày của tôi như sau: đánh hai ván buổi sáng, hai ván buổi chiều, còn tối ôn qua lại cả bốn ván cờ. Như vậy thời gian của tôi lúc nào cũng kín, chứ không kéo dài lê mê một cách vô ích, và lúc nào tôi cũng thấy bận rộn vì đánh cờ có cái hay là không bao giờ làm mệt đầu óc, ngược lại nó làm cho trí lực thêm linh hoạt và dẻo dai. Sở dĩ như vậy vì khi đánh cờ, người ta tập trung toàn bộ trí năng vào một diện hẹp, dù cho gặp thế bí, căng thẳng cũng vậy. Thoạt đầu tôi máy móc tuân theo sự chỉ dẫn nêu trong sách, sau dần dần đây là một trò luyện trí thông minh mà tôi rất thích. Tôi học được cái tinh xảo, những mẹo tinh tế khi tấn, lúc đỡ, tôi nắm được kỹ thuật nhử và quật lại. Chẳng mấy chốc, tôi có khả năng nhận ra được cách đánh của từng nhà chơi cờ nổi tiếng, chẳng khác gì qua vài vần thơ là nhận ra nhà thơ nào. Thoạt đầu đây chỉ là một cách giết thời gian, nhưng sau nó là một trò giải trí thực sự, và những khuôn mặt của các nhà đánh cờ lớn như Alêcxin, Laxkơ, Bôgônglubôp, Tartakôvơ đã làm cho cách đánh cô đơn của tôi trở nên thật dễ chịu.
“Từ nay tính đa dạng đã làm cho căn phòng câm lặng của tôi trở nên nhộn nhịp, sự đều đặn trong luyện tập này làm trí năng của tôi thêm vững chắc. Kỷ luật tình thần rất chính xác này tạo nên một độ nhạy bén mới cho trí lực thể hiện rõ qua các cuộc hỏi cung; qua chơi cờ, sức chống đỡ của tôi trước những động tác giả và những mưu mô giảo quyệt đã khá hẳn lên từ lúc nào tôi cũng chẳng rõ nữa. Từ đó, tôi không hề để lộ vẻ yếu ớt nào trước mặt bọn hỏi cung tôi và tôi cảm thấy bọn chúng nhìn tôi với con mắt khá kính trọng. Chắc bọn chúng tự hỏi không hiểu sức lực đâu mà tôi đã kiên cường chịu đựng như vậy, trong khi những người khác chắc chắn đã phải khai. Giai đoạn sung sướng tôi đã đánh đi đánh lại một cách có hệ thống một trăm năm mươi ván cờ kéo dài trong ba tháng. Sau đó, tôi lại bỗng rơi vào chốn hư vô. Một ván cờ mà cứ đánh đi đánh lại tới hai hoặc ba chục lần thì chẳng còn sức hấp dẫn mới mẻ và hiệu lực của nó cũng chẳng còn nữa. Một khi tôi đã thuộc lòng từng nước một thì tiếp tục đánh nữa liệu có ý nghĩa gì? Nước trước vừa đi, nước sau đã bật ra ngay chẳng khó khăn, chẳng gây một niềm vui bất ngờ nào.
“Để việc tiêu khiển này tiếp tục có tác dụng lớn làm tôi không thể bỏ qua được thì phải có tập hai. Nhưng biết kiếm đâu ra tập hai vào lúc đó, nên tôi đã nảy ra ý định là tự nghĩ ra một ván cờ khác mà tôi tự đánh với bản thân mình hay nói đúng hơn tự mình đối đàu với mình. Tôi không rõ ông có suy nghĩ tới trạng thái tinh thần khi miệt mài lao vào cái thứ chúa tể các trò chơi này không? Trong trò này không thể có sự ngẫu nhiên; sức hấp dẫn của môn cờ là ở chỗ hai bộ óc đối chọi nhau, mỗi người một chiến thuật. Cái thú của cuộc đấu trí này là bên đen không rõ bên trắng điều quân khiển tướng ra sao và cố đoán ý đồ của nó để chống lại, trong khi đó, bên trắng cũng muốn dò ý đồ bí mật của bên đen và tìm cách phá.
“Nếu một người vừa đi các quân đen lại vừa điều khiển quân trắng thì tình huống rất mâu thuẫn. Làm sao một người vừa đi quân trắng xong thì phải quên ngay mục đích của nước đi đó để rồi lại đứng về phía quân đen đi nước tấn lại? Một sự tách đôi về suy nghĩ như vậy đòi hỏi một sự tách đôi hoàn toàn về lương tâm, sự việc này đòi hỏi một khả năng kỳ lạ trong việc tùy ý muốn tách biệt lúc nào cũng được những chức năng nhất định của não như người ta vẫn làm với một chiếc máy. Muốn đánh cờ với chính bản thân mình thì chẳng khác nào như người muốn bước đè lên bóng mình.
“Và thế là trong suốt mấy tuần liền tôi lao vào cái trò vô lý ấy. Với hoàn cảnh lúc đó của tôi, nếu không muốn bị cái hư vô khủng khiếp bao vây tứ phía nghiền nát thì buộc lòng tôi phải thử sắm vai tách đôi trong suy nghĩ giữa một cái tôi là quân trắng và một cái tôi là quân đen”.
Ông B. ngồi ngả người ra lưng ghế và nhắm mắt trong giây lát. Hình như ông cố xua đi một kỷ niệm đau buồn. Chứng máy miệng đã làm tôi chú ý lại thấy xuất hiện nơi mép ông. Sau đó ông ngồi thẳng người lên và kể tiếp:
“Tôi thấy câu chuyện của tôi kể lại, từ nãy tới giờ xem ra rõ ràng dễ hiểu. Tiếc rằng tôi không biết đoạn tiếp đây có được như vậy không. Chẳng là sự bận rộn mới của tôi làm đầu óc tôi căng thẳng đến mức tôi không tài nào làm chủ nổi bản thân mình nữa. Chắc có lẽ tôi đã có một khả năng hết sức nhỏ nhoi thoát khỏi tình trạng căng thẳng đó nếu như bản thân đứng trước một bàn cờ thực sự để có thể dự kiến mọi tình huống trong không gian. Đứng trước bàn cờ, tay được túm các quân cờ thực sự để đánh, phản xạ sẽ nhịp nhàng, người đánh cờ sẽ di chuyển từ bên này sang phía bên kia bàn cờ, do đó sẽ nhìn nhận kỹ tình huống khi nào đang ở bên quân đen, khi nào ở bên quân trắng. Nhưng đằng này tôi lại đánh với bản thân tôi hay, ta có thể nói là đánh với một con người của tôi phản chiếu trong khoảng không gian tưởng tượng, như vậy tôi phải hình dung rất rõ vị trí liên tiếp của các quân cờ, những khả năng của hai bên – và xem ra rất vô lý – tôi phải nhìn thấy rõ trong đầu sáu, tám, mười hai thế khác nhau để có thể tính trước bốn hay năm nước của hai đối thủ nằm trong một con người duy nhất là tôi.
“Để đánh những ván cờ như vậy trong không gian trừu tượng và để trù tính được cho cả hai bên chiến thuật cần thiết cho trận đấu, trí óc tôi, có thể nói là, vừa thuộc về quân trắng và lại vừa thuộc về quân đen. Những sự chia đôi suy nghĩ trong chính bản thân tôi này chưa phải là cái nguy nhất mà cái nguy nhất là mọi diễn biến của trận đấu đều diễn ra trong trí tưởng tượng: như vậy tôi có nguy cơ bất chợt chẳng biết mình phải đánh thể nào nữa và thế là lại đành phải bỏ dở ván đang đánh. Trước đây khi chơi lại những ván nổi tiếng trong cuốn sách dạy đánh cờ, tôi chẳng qua chỉ thực hiện một việc sao chép và chỉ cần nhớ lại một câu hoặc một đoạn của quy tắc. Đây là một hoạt động có giới hạn, có kỷ luật, một môn thể dục tinh thần tuyệt vời.
“Hai ván đánh vào buổi sáng, hai ván đánh vào buổi chiều, tôi cứ kéo cái công việc chán nản này chẳng mấy hứng thú. Khi đánh có nhầm lẫn, có chỗ nào do dự thì đã có chỗ dựa là cuốn sách chuyên luận nên cũng chẳng bận đầu óc lắm. Hoạt động này bổ ích đối với tôi vì người đánh cờ không phải là bản thân tôi. Quân đen hay quân trắng thắng đối với tôi không quan trọng, đấy là việc của Alêcxin hay của Bôgôngiubôp rắp ranh đoạt chức vô địch, và cái thú của tôi ở đây là cái thú của một khán giả, một người thông thạo biết đánh giá diễn biến của trận đấu và những nước đánh hay. Từ lúc tôi tìm cách đánh cờ với chính bản thân mình thì vô tình tôi đã đứng lên thách thức với chính bản thân mình. Quân đen đấu với quân trắng, như vậy tôi tự đấu với tôi và tôi lại cứ muốn thắng bản thân tôi. Khi đi quân đen, tôi cố tìm cách thắng quân trắng và khi ở bên quân trắng, tôi lại quyết thắng quân đen. Một trong hai đối thủ ở trong tôi sẽ hân hoan đắc chí và đồng thời sẽ nổi cáu khi kẻ kia đi hớ.
“Nếu đối với một người bình thường sống trong những điều kiện bình thường thì chuyện đó chẳng có gì đáng để nói nhiều. Tinh thần phân lập được tạo ra do cách ấy có gì là chuyện không thể tưởng tượng được, một sự phân đôi của nhân vật có gì là kỳ cục! Nhưng mong ông đừng quên rằng tôi bị bứt ra một cách thô bạo khỏi khung cảnh thông thường, là một người vô tội bị cầm tù, bị đày đọa trong cảnh cô đơn từ mấy tháng nay, là một người không biết trút cơn giận bị dồn nén vào cái gì và cũng như vào đầu ai. Tôi không có gì để tiêu khiển ngoài cái trò vô lý tự mình đánh với mình này, sự cuồng nhiệt và lòng mong muốn trả thù của tôi đều trút một cách mãnh liệt cả vào đấy. Trong bản thân tôi có một con người muốn vùng đứng lên bảo vệ quyền của mình, nhưng không thể chỉ đổ trách nhiệm cho một cái tôi khác mà tôi đang sắm vai; chính vì vậy những ván cờ ấy đã gây cho tôi những kích thích gần như bị ám ảnh. Thoạt đầu, tôi còn có thể đánh một cách bình tĩnh, giữa hai ván tôi nghỉ một lát để xả hơi, nhưng về sau, thần kinh tôi bị kích thích không để tôi nghỉ ngơi. Vừa đi quân trắng xong, quân đen đã liền điên tiết xong đến đứng trước mặt tôi. Ván cờ vừa kết thúc, một nửa con người tôi đã nổi lên thách đố nửa kia, vì trong tôi luôn có một kẻ thua cờ đòi phục thù.
“Tôi không thể nói, dù chỉ ang áng, trong cơn lầm lạc vô độ ấy tôi đã đánh bao nhiêu ván như vậy, có lẽ phải đến một ngàn, có lẽ hơn nữa. Tôi như kẻ bị ma ám và không cưỡng lại được, suốt ngày đầu óc tôi lúc nào cũng “chiếu hết” và “chiếu hết bằng quân Xe”, lúc nào cũng chỉ toàn thấy Binh, quân Xe, quân Vua và quân Tượng. Toàn bộ con người tôi, toàn bộ sự nhạy cảm của tôi đều tập trung vào các ô cờ tưởng tượng. Đối với tôi, niềm vui được đánh cờ đã trở thành một ước vọng mãnh liệt, một ước vọng bị câu thúc, một sự ám ảnh, một cuồng nhiệt ngày đêm không dứt ra được. Tôi chỉ nghĩ tới cờ, những vấn đề thuộc về cờ, những nước đi. Đôi khi, ngủ dậy tôi thấy trán mình đẫm mồ hôi, tôi liền nhận ra rằng tôi đã đánh cờ ngay cả trong lúc ngủ. Nếu nằm mơ khi ngủ, tôi nhìn thấy các khuôn mặt người di động theo kiểu các quân Xe, quân Mã, quân Tượng.
“Ở phiên tòa, suy nghĩ của tôi lẫn lộn lung tung. Trong những lần cuối, khi ra tòa, tôi có cảm giác tôi diễn đạt khá lờ mờ, vì các thẩm phán đưa mắt nhìn nhau vẻ sửng sốt. Sự thực là khi bọn họ tiến hành vặn hỏi điều tra và thảo luận thì tôi một mực tha thiết mong chong chóng được dẫn trở về phòng mình để lại bắt đầu trò chơi, cái trò chơi điên rồ của tôi. Một ván và rồi lại một ván nữa. Tôi thấy mình bị quấy rầy trước bất kỳ một sự dứt đoạn về thời gian, dù đấy là mười lăm phút khi tên giám ngục quét dọn phòng tôi, dù chỉ hai phút khi gã mang đồ ăn vào cho tôi. Đôi khi, bữa ăn của tôi vẫn còn nguyên trong tôi(?) cho mãi tận chiều tối vì tôi đã quên không ăn. Tôi chỉ thấy khát nước, khát kinh khủng, chắc là do cứ mải miết đánh như vậy và cứ phải suy nghĩ triền miên. Tôi uống một hơi hết sạch cả bình nước và xin gã giám ngục mang thêm nước cho tôi, nhưng chỉ một lát miệng tôi đã khô khốc.
“Cuối cùng, tôi đã bị kích thích tới mức không thể ngồi yên một phút. Suốt ngày tôi chẳng làm gì khác ngoài đánh cờ, tôi cứ đi đi lại lại trong phòng mình, bước mỗi lúc một rảo cẳng, và càng về cuối ván bước chân tôi càng thoăn thoắt. Nỗi say mê đánh thằng, đánh bại ngay chính bản thân mình dần dần trở thành một loại cuồng nhiệt. Tôi run lên vì sốt ruột, chẳng là một trong hai đối thủ nằm trong tôi luôn luôn quá chậm chạp so với bên kia. Hai đối thủ quấy phá nhau và, nếu tôi nói ra mong ông cũng đừng cho là lạ, tôi cứ hò hét thúc giục bản thân mình: “Khẩn trương lên, khẩn trương lên nào, nào” –khi một bên chưa kịp chống trả.
“Tất nhiên mãi bây giờ tôi mới biết rõ tình trạng tâm thần đó đã mang tính chất bệnh lý. Tôi không biết gọi hiện tượng này bằng một cái tên nào khác ngoài cái tên “bị đầu độc bởi môn đánh cờ” chưa hề có trong thuật ngữ y học. Điều ám ảnh này cuối cùng đã đầu độc cả thể xác lẫn tâm hồn tôi. Tôi gầy đi, giấc ngủ chập chờn không yên. Khi dậy mí mắt tôi nặng như chì phải vất vả lắm mới mở mắt được. Sức khỏe tôi bị giảm sút rất nhiều, tay tôi run đến mức lẩy bẩy mãi mới nâng được cốc lên miệng. Nhưng vừa bắt đầu vào ván cờ, tôi như người vừa được tiếp cho một sức mạnh ghê gớm. Tôi đi đi lại lại trong phòng, hai tay nắm chặt và đôi khi, tôi nghe phảng phất như qua một làn sương mù phớt đỏ giọng nói khàn khàn và độc địa của tôi gào lên: “Chiếu!” hay “Chiếu hết!”.
“Tôi không thể nói với ông cơn bệnh đã xảy ra như thế nào. Tôi chỉ biết là vào một sáng nọ, khi tỉnh dậy tôi thấy trong người khang khác. Cơ thể tôi như không phải là của tôi nữa, cơ thể tôi duỗi dài thoải mái, êm ái trong điều kiện tiện nghi thật dễ chịu. Một sự mệt mỏi mà mấy tháng nay tôi chưa từng cảm thấy, đè nặng mí mắt tôi, gây cho tôi cảm giác thật thoải mái đến nỗi tôi chỉ những muốn mở bừng mắt. Tôi cứ nằm nguyên như vậy trong vài phút, tận hưởng nỗi sững sờ của tôi, tận hưởng hơi ấm trên giường, vẻ uể oải khoan khoái. Thình lình tôi nghe có tiếng ai nổi lên phía sau tôi, nhưng tiếng nói ấm áp và sinh động, thốt ra một cách thanh thản và ông không thể hình dung nổi nỗi vui thích của tôi đâu vì hàng tháng nay tôi chỉ toàn nghe những lời nói khắc nghiệt và quàu quạu của bọn thẩm phán vặn hỏi tôi. “Ông bạn đang mơ!” tôi tự nhủ. “Ông bạn đang nằm mơ! Chớ mở mắt vội! Cố kéo dài giấc mơ của ông bạn còn hơn lại phải thấy căn phòng đáng nguyền rủa này, chiếc ghế, chiếc chậu, chiếc bàn và họa tiết muôn thuở trên giấy bồi tường. Ông bạn đang nằm mê, thôi cứ mê tiếp đi.”
“Nhưng tính tò mò đã thắng. Tôi thận trọng, từ từ mở mắt ra. Ôi, tuyệt quá! Tôi thấy mình đang ở trong một căn phòng khác, một căn phòng rộng rãi hơn phòng tôi ở khách sạn. Ánh sáng thoải mái ùa vào qua ô cửa sổ không chấn song. Ngoài kia tôi thấy có cây, hàng cây xanh lay động trước gió chứ không phải bức tường ảm đạm của tôi. Tường sơn màu trắng sáng sủa, chăn tôi đang đắp cũng màu trắng, đúng là tôi đang nằm trên một chiếc giường khác, chiếc giường không phải của tôi. Đây không phải là một giấc mơ. Có tiếng nói nhè nhẹ cất lên ở phía sau tôi. Chắc tôi rất bối rối trước phát hiện này, vì tôi nghe thấy những tiếng chân người liền bước đến bên giường. Một người phụ nữ lại gần tôi, dáng đi nhẹ nhàng, một phụ nữ đội mũ trắng, một nữ y tá. Tôi run lên vì vui thích: từ một năm nay tôi chưa nhìn thấy một người phụ nữ nào. Chắc tôi nhìn sự xuất hiện duyên dáng này với cặp mắt ngây ngất và nóng bỏng nên chị nữ y tá liền bảo: “Ông cứ bình tĩnh! Thật bình tĩnh!”. Tôi chỉ chú ý nghe giọng chị, đây là giọng của con người? Trên trái đất này vẫn còn những người không phải là thẩm phán, không phải là những kẻ tra tấn, ôi thật kỳ diệu! Vẫn còn người phụ nữ giọng dịu dàng và ấm áp gần như trìu mến này. Tôi khao khát nhìn chăm chăm chiếc miệng vừa nói với tôi những lời tốt đẹp, vì cái năm quái quỷ này đã làm cho tôi quên mất cái tốt đẹp giữa người với người. Chị nữ y tá mỉm cười với tôi, đúng chị mỉm cười, thế ra trên đời này vẫn còn những người mỉm cười. Sau đó, chị đưa một ngón tay lên miệng chị rồi lặng lẽ bỏ đi.
“Làm sao tôi lại có thể tuân lời chị nữ y tá? Ngược lại, tôi cố kiên quyết ngồi dậy đưa mắt nhìn theo chị để vẫn được ngắm nhìn con người kỳ diệu và nhân từ này. Tôi cố chống tay ngồi dậy nhưng vô hiệu. Tay phải bị bọc trong một bọc tướng màu trắng, đúng là tay bị băng bó. Thoạt đầu tôi ngơ ngác nhìn chỗ băng bó, sau dần dần nhận ra tôi đang ở đâu và suy nghĩ xem đã có chuyện gì xảy ra với tôi. Chắc bọn chúng đã làm tôi bị thương hay có thể bản thân tôi đã tự gây thương tích ở tay. Do đó tôi phải nằm ở bệnh viện.
“Buổi chiều, bác sĩ vào thăm tôi, đấy là một ông khá tử tế. Ông biết họ tên tôi và khi nói tới bác tôi – bác sĩ của hoàng thượng, giọng ông đầy vẻ kính trọng nên tôi nhận ra ngay ông chỉ mong muốn điều tốt lành cho tôi. Trong khi trò chuyện, ông hỏi tôi đủ mọi thứ và tôi ngạc nhiên khi nghe ông hỏi tôi có phải là nhà toán học hay hóa học không. Tôi trả lời tôi không phải là nhà toán học hay hóa học.
“- Lạ thật, - ông khẽ nói, - khi mê ông đã thốt lên hàng trăm những công thức lạ lắm, như c3, c4. Chẳng ai trong chúng tôi hiểu gì cả.
“Tôi gặng hỏi xem chuyện gì đã xảy ra với tôi. Ông mỉm cười, vẻ khác thường.
“- Không có gì hệ trọng lắm. Một cơn thần kinh bị kích động dữ dội. – Và rồi sau khi đưa mắt thận trọng nhìn quanh, ông nói tiếp: - Vả lại, cũng dễ hiểu thôi. Ông ở đằng ấy từ ngày mười ba tháng ba, đúng không?
“Tôi gật đầu như muốn đáp: “Vâng ạ”.
“- Chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên, với các phương pháp đó, - ông bác sĩ làu bàu. – Ông không phải là người đầu tiên. Nhưng ông đừng lo ngại.
“Qua cách ông nói và nhìn tôi, tôi hiểu rằng mình đã gặp người tốt.
“Hai ngày sau ông bác sĩ tuyệt vời đã thành thực kể tất cả những gì xảy ra với tôi. Tên giám ngục nghe thấy tôi la hét om sòm ở trong phòng tôi nên thoạt đầu gã tưởng có kẻ nào đã lọt được vào phòng tôi và tôi đang cãi lộn với người đó. Nhưng khi gã vừa bước chân vào trong phòng, tôi liền nhảy bổ vào gã, miệng hò hét một cách hung dữ: “Thế nào, đi đi chứ, đồ tồi, đồ hèn!” Tôi cứ cố chồm lên định túm cổ gã, do đó gã đã phải kêu cứu. Trong khi bọn chúng dìu tôi đến chỗ bác sĩ, tôi đã vùng thoát ra dược và do đang trong cơn hoảng loạn, tôi lao vào một cửa sổ trên hành lang. Tôi làm vỡ kính và bị một vết thương hằn sâu ở tay, ông thấy hãy còn vết sẹo đây này. Tôi đã bị đại loại lên cơn sốt não khi được đưa đến bệnh viện, nhưng các giác quan của tôi chẳng mấy nỗi đã hoàn toàn được phục hồi.
“- Tất nhiên tôi sẽ không nói với mấy ông ấy là sức khỏe của ông đã khá rồi, - vị cứu tinh của tôi dịu dàng nói tiếp: - họ có thể lại bắt ông phải tiếp tục chịu đựng. Ông cứ tin rằng tôi sẽ cố hết sức mình để gỡ khó khăn cho ông.
“Tôi không rõ ông bạn quý này đã có quan hệ thế nào với bọn đao phủ của tôi, nhưng ông đã đạt được điều ông muốn, nghĩa là tôi đã được thả. Cũng có thể bọn chúng cho rằng tôi là một người không giữ một trách nhiệm gì, cũng có thể bản thân tôi chẳng còn có ích gì cho Gextapô vì Hitle vừa chiếm Tiệp Khắc nên chúng không quan tâm đến tình hình của nước Áo nữa.